Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn,
nguồn lực còn hạn hẹp, được sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước và toàn
xã hội, với những nỗ lực của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý, giáo
dục và đào tạo nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: Thực hiện giáo dục
toàn dân, nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, bồi dưỡng nhân tài;
góp phần giáo dục ý thức công dân, phẩm chất chính trị, lý tưởng
cách mạng cho các thế hệ con người Việt Nam; giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa; các điều kiện đảm bảo chất lượng được tăng cường; chất lượng
và hiệu quả giáo dục ở các cấp học, trình độ đào tạo có tiến bộ;
hợp tác quốc tế được mở rộng; lực lượng lao động qua đào tạo tăng khá nhanh.
Những thành tựu trên và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới cho phép
và đòi hỏi giáo dục Việt Nam
chuyển từ phát triển thực tế chủ yếu theo mục tiêu số lượng sang mục tiêu coi
trọng cả chất lượng, hiệu quả và số lượng theo nhu cầu xã hội.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là yêu cầu đổi mới mô hình tăng
trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và phát triển bền vững, giáo dục
còn nhiều yếu kém, bất cập. Giáo dục vẫn chưa thực sự là quốc sách hàng
đầu, chưa được ưu tiên nhất trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội,
chưa được coi là nhân tố quyết định của phát triển đất nước. Nhiều hạn chế, yếu
kém của giáo dục đã được nêu từ Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII vẫn chậm được
khắc phục, có mặt còn nặng nề hơn. Khoa học giáo dục còn lạc hậu. Chất lượng
giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; chưa tạo ra lợi thế
cạnh tranh mạnh mẽ về nhân lực của nước ta so với các nước trong khu vực và
trên thế giới, chưa tích cực chủ động góp phần vào việc bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa của dân tộc. Quản lý giáo dục còn nhiều bất cập; kinh phí đầu
tư cho giáo dục còn hạn chế. Thiếu dự báo nhu cầu nhân lực cho quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhu cầu học tập của nhân dân để làm cơ
sở cho công tác quy hoạch phát triển giáo dục.
Để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức,
tích cực chủ động hội nhập quốc tếa sâu rộng hơn, để đến năm 2020 nước ta trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại đòi hỏi phải đổi mới căn bản
toàn diện giáo dục đào tạo.
Tuy nhiên đây là những vấn đề hết sức lớn lao, hệ
trọng và phức tạp còn nhiều ý kiến khác nhau, cần phải tiếp tục nghiên cứu,
tổng kết thấu đáo, cẩn trọng, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng, toàn dân.
Vì vậy Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa XI đã đưa ra: Kết luận số
51-KL/TW ngày 29/10/2012 về Đề án “ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường”. Kết luận đã chỉ rõ tình hình, nguyên nhân mạnh yếu của giáo dục đào
tạo trong thời gian qua, xác định những phương hướng cơ bản chủ yếu đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục đào tạo. Theo đó đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
đào tạo là một yêu cầu khách quan và cấp bách của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta hiện nay. Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết,
từ tư duy, quan điểm đến mục tiêu, hệ thống, chương trình giáo dục
(nội dung, phương pháp, thi, kiểm tra, đánh giá), các chính sách, cơ chế
và các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục; đổi mới ở tất cả các cấp
học và trình độ đào tạo, ở cả Trung ương và địa phương, ở mối quan
hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Đổi mới để tạo ra chuyển biến
mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả giáo dục, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhu cầu học tập của nhân dân.
Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, có tầm
nhìn dài hạn, các giải pháp đồng bộ, khả thi, có cơ sở khoa học.
Đổi mới căn bản và toàn diện không có nghĩa là
làm lại tất cả, từ đầu mà cần vừa củng cố, phát huy các thành tựu và điển hình
đổi mới, vừa kiên quyết chấn chỉnh những lệch lạc, những việc làm trái quy
luật, phát triển những nhân tố tích cực mới; đổi mới có trọng tâm, trọng điểm,
có lộ trình phù hợp với thực tế đất nước, địa phương. Những hạn chế, thách thức
của giáo dục phải được nhận thức sâu sắc, có giải pháp hữu hiệu và lộ trình để
khắc phục, vượt qua để đưa sự nghiệp giáo dục lên tầm cao mới.
Để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo cần quán triệt các quan điểm chỉ đạo sau:
- Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân, là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò một nhân tố quyết
định để thực hiện thành công mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”; đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi
trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội.
- Mục tiêu giáo dục là phát triển năng lực
công dân, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Thực hiện tốt các
nguyên lý giáo dục “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động
sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với
giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ
yếu chú trọng trang bị kiến thức (nâng cao dân trí) sang tập trung phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học (năng lực công dân).
- Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp quy luật
phát triển khách quan, những tiến bộ khoa học và công nghệ. Chuyển phát triển
giáo dục hiện nay chủ yếu theo mục tiêu số lượng sang phát triển theo mục tiêu
vừa nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, vừa đáp ứng yêu cầu số lượng theo
nhu cầu nhân lực của xã hội. Thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa và dân
chủ hóa giáo dục.
- Xây dựng xã hội học tập. Chuyển hệ thống giáo
dục cứng nhắc, thiếu tính liên thông hiện nay sang hệ thống giáo dục mở , linh
hoạt, bảo đảm liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức đào tạo,
tạo điều kiện thuận lợi cho người dân học tập suốt đời. Thực hiện xã
hội hóa, dân chủ hóa giáo dục và hội nhập quốc tế.
- Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
trong phát triển giáo dục. Phát triển hài hòa, bình đẳng, hỗ trợ lẫn nhau giữa
giáo dục công lập và ngoài công lập, giáo dục các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát
triển giáo dục vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân
tộc thiểu số và các đối tượng diện chính sách.
- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát
triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu
hội nhập để phát triển đất nước. Việc hội nhập phải trên cơ sở giữ gìn bản sắc
văn hóa và độc lập dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát triển
bền vững giáo dục nước nhà.
Mục tiêu tổng quát là: Tạo chuyển biến căn
bản về chất lượng và hiệu quả giáo dục; khắc phục cơ bản các yếu
kém kéo dài đang gây bức xúc trong xã hội để giáo dục và đào tạo trở
thành một nhân tố quyết định cho sự phát triển nhanh và bền vững đất
nước.
Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam
đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và hội nhập quốc tế.
- Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn
diện, yêu gia đình, yêu Tổ quốc; có hiểu biết và kỹ năng cơ bản, khả năng
sáng tạo để làm chủ bản thân, sống tốt và làm việc hiệu quả - thực học, thực
nghiệp; phát triển tốt nhất tiềm năng của mỗi cá nhân; đóng góp tích
cực vào sự phát triển của đất nước;
- Xây dựng nền giáo dục mở, dạy tốt, học tốt,
quản lý tốt, có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng
xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng. Hệ thống giáo
dục được chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế;
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và mang đậm bản sắc dân tộc.
Để thực hiện được những quan điểm và mục tiêu đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục, cần thực hiện tốt những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản
sau:
Một là,
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với quá trình
đổi mới giáo dục, trước hết là đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc tư duy giáo dục
Nhiệm vụ và giải pháp này nhằm thay đổi nhận
thức và trách nhiệm của toàn xã hội về giáo dục. Đây là nhiệm vụ đặc biệt
quan trọng, vừa trước mắt, vừa lâu dài quyết định sự thành công của công cuộc
đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo.
Hai là, Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của chương
trình giáo dục (mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục) theo hướng phát triển
phẩm chất và năng lực người học
Nhiệm vụ và giải pháp thứ hai nhằm chuyển từ
giáo dục chủ yếu nhằm trang bị kiến thức sang mục tiêu phát triển phẩm chất và
năng lực người học.
- Xác định mục tiêu giáo dục con người vừa đáp
ứng yêu cầu xã hội vừa phát triển cao nhất tiềm năng của mỗi cá nhân. Phát
triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ thay vì
chỉ chú trọng trang bị kiến thức; kết hợp hài hòa dạy người, dạy chữ và dạy
nghề;
- Nội dung giáo dục đổi mới theo hướng tinh giản,
cơ bản, hiện đại, giảm tính hàn lâm, tăng tính thực hành và vận dụng kiến thức,
kỹ năng vào thực tiễn. Thiết kế nội dung giáo dục phổ thông theo hướng tích hợp
cao các môn học ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học
trên; giảm số môn học bắt buộc; tăng số môn học, chủ đề và hoạt động giáo dục
dành cho học sinh tự chọn. Đa dạng hóa nội dung giáo dục nghề nghiệp theo
hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ, hình thành năng lực nghề nghiệp cho
người học. Đổi mới nội dung giáo dục đại học theo hướng cơ bản, tích hợp các
lĩnh vực kiến thức, kỹ năng và hiểu biết xã hội, tiếp cận thành tựu khoa học -
công nghệ tiên tiến trên thế giới. Đổi mới chương trình giáo dục đạo đức, giáo
dục công dân, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh theo
hướng tập trung vào những giá trị cơ bản của đạo lý dân tộc, đạo đức xã hội,
trách nhiệm cộng đồng, những giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa
Mác - Lênin; giảm tải phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề đào tạo. Dạy
học ngoại ngữ và tin học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực
sử dụng thực tế của người học. Chú trọng dạy tiếng nói và chữ viết
của dân tộc thiểu số. Phát triển đa dạng nội dung, tài liệu học tập đáp ứng
nhu cầu học tập suốt đời của mọi người;
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc; phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học,
tập trung dạy cách học, cách nghĩ và tự học, theo phương châm “giảng ít, học
nhiều”. Chuyển quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Bồi dưỡng khát
vọng học tập suốt đời.
Chuyển từ chủ yếu thực hiện chương trình giáo dục
trên lớp học sang tổ chức đa dạng các hình thức thực hiện chương trình giáo
dục; tăng cường các hoạt động xã hội, nghiên cứu khoa học của người học. Coi
trọng sự phối hợp chặt chẽ giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục
xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học;
tăng cường áp dụng hình thức giáo dục từ xa có chất lượng.
Ba là, Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp kiểm tra, thi và đánh
giá chất lượng giáo dục, bảo đảm trung thực, khách quan, chính xác, theo
yêu cầu phát triển năng lực, phẩm chất người học
Nhiệm vụ và giải pháp thứ ba nhằm xây dựng hệ
thống đánh giá kết quả giáo dục một cách khoa học, hiệu quả, góp phần tạo
ra một nền giáo dục thực chất, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước.
- Nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá
kết quả giáo dục phải chú trọng đánh giá việc hiểu, vận dụng kiến thức, kỹ năng
vào việc giải quyết các vấn đề trong học tập và thực tiễn; hạn chế yêu cầu
ghi nhớ máy móc, “học tủ”; đánh giá được sự tiến bộ về phẩm chất và
năng lực của người học; phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học
và đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy và tự đánh giá của
người học; đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình, của xã hội;
- Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp
trung học phổ thông theo hướng kiểm tra năng lực học sinh, thiết thực, hiệu
quả, tin cậy, sử dụng được kết quả công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông
làm căn cứ cho tuyển sinh của nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục
đại học;
- Đổi mới phương thức đánh giá và công nhận tốt
nghiệp đối với giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề trên cơ sở đánh giá năng
lực thực hiện, kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp, có sự tham
gia của doanh nghiệp hoặc đại diện sử dụng lao động;
- Đổi mới phương thức tuyển sinh đại học
theo hướng kết hợp kết quả giáo dục phổ thông và yêu cầu của ngành
đào tạo; đánh giá kết quả đào tạo đại học theo hướng chú trọng
đánh giá năng lực phân tích, phê phán, sáng tạo, giải quyết vấn đề
và thái độ nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học và
công nghệ, năng lực thực hành tương xứng với trình độ đào tạo, năng
lực thích nghi với môi trường làm việc;
- Ngoài việc đánh giá kết quả học tập của người
học, cần tiến hành các hình thức đánh giá chất lượng giáo dục cả nước, từng địa
phương, từng cơ sở giáo dục; thực hiện các kỳ đánh giá quốc gia chất lượng giáo
dục phổ thông và tham gia đánh giá quốc tế để làm căn cứ đề xuất chính sách,
giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục;
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống kiểm định chất
lượng giáo dục của Nhà nước, của xã hội. Định kỳ kiểm định chất lượng các cơ sở
giáo dục, đào tạo và các chương trình đào tạo, công khai kết quả kiểm định
trước xã hội.
Bốn là, Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo
dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
Nhiệm vụ và giải pháp thứ tư nhằm khắc phục những
bất hợp lý của hệ thống giáo dục khép kín, thiếu mềm dẻo, thiếu liên thông; xây
dựng hệ thống giáo dục mở đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người dân và
tăng hiệu quả giáo dục.
Năm là, Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, bảo đảm dân chủ,
thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục; coi
trọng quản lý chất lượng. Quản lý tốt là tiền đề căn bản để dạy tốt
và học tốt
Để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, điều đặc
biệt quan trọng là phải đổi mới căn bản quản lý giáo dục; trong đó tập trung
vào việc tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, phát huy vai trò của ngành giáo
dục, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội; đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách
nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục.
Sáu là, Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục đào tạo
Nhiệm vụ và giải pháp này nhằm xây dựng đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, gương
mẫu về trách nhiệm nghề nghiệp, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ; đây là giải pháp
then chốt bảo đảm sự thành công của công cuộc đổi mới giáo dục.
Sắp xếp lại hệ thống các cơ sở đào tạo giáo viên
theo hướng khắc phục tình trạng phân tán; hình thành các trường sư phạm khu
vực. Các trường sư phạm chỉ làm nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo, cán bộ
quản lý giáo dục và nghiên cứu khoa học. Không giao nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng
giáo viên đối với một số cơ sở đào tạo sư phạm hiện nay nếu xét thấy không còn
phù hợp. Tập trung xây dựng một số trường sư phạm, sư phạm kỹ thuật trọng điểm.
Xây dựng và thực hiện cơ chế điều hòa, phối hợp trong quá trình phát triển và
hoạt động của các trường sư phạm, sư phạm kỹ thuật theo mục tiêu, kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trên phạm vi cả nước.
Có cơ chế tuyển sinh và cử tuyển riêng để tuyển
chọn được những người có năng lực phù hợp vào ngành sư phạm;
Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương
pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng giáo viên và đánh giá kết quả học tập, rèn
luyện trong đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, trách
nhiệm, đạo đức nhà giáo và năng lực nghề nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu mới của
giáo dục các cấp học và trình độ đào tạo.
Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý theo từng cấp học. Tiến tới tất cả giáo viên tiểu học, trung học cơ sở
phải có trình độ đại học; giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp có trình độ đại học trở lên và có năng lực sư phạm và năng lực nghề
nghiệp tương ứng với trình độ và ngành nghề đào tạo; giảng viên cao đẳng, đại
học có trình độ từ thạc sĩ trở lên và phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm. Nhà giáo của các cơ sở đào tạo phải đi thực tế tại các cơ sở sản xuất,
dịch vụ. Cán bộ quản lý giáo dục các cấp phải được đào tạo về nghiệp vụ quản
lý;
Có chế độ đặc thù cho nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục ở cơ sở giáo dục và cơ quan quản lý giáo dục.
Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải trên cơ sở đánh giá thực tế năng lực và
hiệu quả công tác.
Tiếp tục thực hiện chủ trương về lương cho giáo
viên như Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) đã khẳng định, có thêm chế độ phụ
cấp thâm niên và phụ cấp khác tùy theo tính chất, kết quả và chất lượng
công việc, theo vùng, đi đôi với cơ chế đánh giá, sàng lọc; bổ sung chế độ cho
cán bộ quản lý giáo dục được hưởng thâm niên nghề.
Có chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các
giảng viên trẻ có nhà ở, tham gia nghiên cứu khoa học, học tập nâng cao trình
độ, năng lực. Có chế độ ưu đãi và quy định hợp lý tuổi nghỉ hưu đối với nhà
giáo có trình độ cao, đồng thời có cơ chế miễn nhiệm hoặc bố trí công việc
khác đối với những người không còn phù hợp. Bảo đảm bình đẳng về tôn vinh và
cơ hội đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ giữa nhà giáo trường
công lập và trường ngoài công lập.
Xây dựng, áp dụng chính sách và cơ chế động viên
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tích cực tự học, tự bồi dưỡng nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tạo điều kiện để các nhà giáo, chuyên gia
nước ngoài, kể cả người Việt Nam
ở nước ngoài, tham gia giảng dạy và nghiên cứu ở trong nước.
Bảy là, Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, tăng cường cơ sở vật chất,
huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư
để phát triển giáo dục
Nhiệm vụ và giải pháp thứ bảy khẳng định nguồn
đầu tư từ ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong tổng đầu tư xã hội cho
giáo dục, đồng thời vẫn đa dạng hóa và phát huy hiệu quả các nguồn đầu tư khác
cho giáo dục.
Tám là, Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và công nghệ,
đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý
Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học giáo dục và khoa học
quản lí để giải quyết tốt những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi
mới giáo dục; đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và công nghệ trong các cơ
sở giáo dục, nhất là cơ sở giáo dục đại học để nâng cao chất lượng đào tạo và
góp phần phát triển khoa học và công nghệ của quốc gia, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nền kinh tế.
Thực sự coi trọng vai trò của khoa học giáo dục
và khoa học quản lý. Phát triển mạng lưới cơ sở nghiên cứu khoa học giáo dục,
tập trung đầu tư nâng cao năng lực nghiên cứu của cơ quan nghiên cứu khoa học
giáo dục quốc gia. Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và
chuyên gia giáo dục trình độ cao. Triển khai chương trình nghiên cứu quốc gia
về khoa học giáo dục để cung cấp luận cứ cho việc hoạch định chủ trương, chính
sách, giải pháp phát triển giáo dục;
Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, chuyển
giao công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học. Gắn kết chặt chẽ đào tạo, nhất
là đào tạo sau đại học, với nghiên cứu khoa học và công nghệ; phát triển
các sản phẩm và các giải pháp mới phục vụ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa;
Ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu các khoa học mũi
nhọn, phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm nghiên cứu, trung tâm công nghệ
cao, cơ sở sản xuất thử nghiệm ở trình độ hiện đại trong các cơ sở giáo
dục đại học. Có chính sách khuyến khích học sinh, sinh viên nghiên cứu khoa
học;
Khuyến khích thành lập các viện, trung tâm nghiên
cứu và chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong các
trường đại học; hỗ trợ đăng ký và khai thác sáng chế, phát minh trong các cơ sở
giáo dục. Đặt hàng và giao kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ cho các
trường đại học để thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học;
Nghiên cứu sáp nhập một số viện nghiên cứu khoa
học với các trường đại học công lập.
Chín là, Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong
giáo dục, đào tạo
Chủ động mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế về giáo dục và đào tạo nhằm tranh thủ các nguồn lực, vận dụng có chọn
lọc và sáng tạo kinh nghiệm và các mô hình giáo dục tiên tiến đi đôi với phát
huy nội lực, giữ vững bản sắc dân tộc, độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Trong các nhiệm vụ, giải pháp nói trên, có thể
coi “đổi mới tư duy giáo dục”, “đổi mới quản lý giáo dục”, trong đó có “đổi
mới chính sách, cơ chế tài chính” và “phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục” là các giải pháp then chốt, “đổi mới kiểm tra, thi và đánh
giá” là khâu đột phá.
Với các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và các nhiệm
vụ, giải pháp nêu trên, nền giáo dục Việt Nam sẽ được đổi mới căn bản, toàn
diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập
quốc tế.
Obligations helful hints recommend
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét